Cuộc đời và sự nghiệp của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp

Lần đầu tiên sau 9 năm kháng chiến nhân dân Hà Nội vừa được giải phóng đã được tận mắt nhìn thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh các nhà lãnh đạo Chính phủ và Đảng Lao động Việt Nam trong lịch sử hiện đại Việt Nam. Đặc biệt là thời kỳ kháng chiến chống Pháp và kháng chiến chống Mỹ không thể không kể đến đại tướng Võ Nguyên Giáp Vị đại  tướng đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam và thường được gọi là người học trò xuất sắc nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tuy xuất thân chỉ là một giáo viên dạy lịch sử có lòng yêu nước và quyết tâm hoạt động cách mạng nhưng Võ Nguyên Giáp đã từng bước trở thành một nhà quân sự lỗi lạc người đánh thắng những đế quốc hùng mạnh bậc nhất trên thế giới. Vậy thì Võ Nguyên Giáp đã trở thành một vị tướng tài ba bậc nhất trong lịch sử thế kỷ 20 như thế nào hãy cùng tìm hiểu qua bài viết sau:

Thuở thiếu thời và giai đoạn hoạt động đầu tiên:

Võ Nguyên Giáp sinh ngày 25 tháng 8 năm 1911 tại làng An Xá thuộc đại phong, Lệ Thủy, Quảng Bình. Võ Nguyên Giáp là người con thứ sáu trong gia đình trước có đến năm anh em khác. Ba người đầu tiên đều qua đời từ khi còn rất trẻ hai người trong số ấy mất vì bệnh tật người còn lại bị quân Pháp bắt giam và mất sau khi được thả. Vùng Quảng Bình với Nghệ An, Hà Tĩnh bấy giờ vẫn còn là một vùng đất nghèo. Gia Đình Võ Nguyên Giáp tuy không khá giả nhưng cũng không đến mức thiếu thốn đủ bề. Cụ Võ Quang Nghiêm cha ông vốn là một nhà nho yêu nước thường được người làng gọi là ông Cửu Nghiêm. Cha của Đại Tướng, cụ Nghiêm cũng đã từng tham gia phong trào Cần Vương chống Pháp dù cuối cùng thất bại nhưng vẫn là một việc đáng tự hào của gia đình họ Võ. Sinh ra trong một môi trường như vậy nên ngay từ bé Võ Nguyên Giáp đã có tinh thần chống pháp. Sau khi học xong Tiểu học Võ Nguyên Giáp lên thị xã Đồng Hới học tiếp. Năm 1925 ông thi được vào trường Quốc Học Huế. Võ Nguyên Giáp dần chứng tỏ năng lực của bản thân và trở thành một học sinh giỏi với thành tích đỗ đầu toàn tỉnh trong kỳ thi tốt nghiệp bậc sơ học trong những năm tháng học ông đã từng có thời gian đến gặp gỡ và được nghe cụ Phan Bội Châu bàn luận về vấn đề lịch sử dân tộc. Giống như nhiều người khác ông cũng không hề thích thú với việc học. Học sinh Việt Nam phải học về lịch sử mẫu quốc Pháp trong khi lại không hề biết điều gì về lịch sử nước mình. Vì vậy ông và nhiều học sinh Quốc Học Huế khác đã dành nhiều thời gian tiếp xúc và học hỏi cụ Phan Bộ Châu sau này nhìn lại chính ông cũng nói rằng Trường Quốc Học Huế và nhiều anh em học ở đấy chính là những người đặt nền móng cho cách mạng Việt Nam. Năm 1927 vì tham gia phong trào biểu tình và bãi khóa mà Võ Nguyên Giáp bị đuổi khỏi trường ông về quê và được giới thiệu gia nhập Tân Việt cách mạng Đảng.

Bấy giờ thế chiến thứ hai đang diễn ra ác liệt ở khắp nơi Võ Nguyên Giáp bèn lập kế hoạch cùng người bạn là Phạm Văn Đồng tìm cách sang Trung Quốc để gặp các lãnh đạo đảng cộng sản đặc biệt là Nguyễn Ái Quốc Hồ Chí Minh ban đầu Nguyễn Thị Quang Thái, Nguyễn Thị Minh Khai cũng muốn đi theo nhưng Võ Nguyên Giáp không đồng ý. Ông cho rằng cả bốn người đi sẽ dễ lộ hơn hơn nữa cũng không thể mạo hiểm. Chủ nghĩa dân tộc có màu sắc cộng sản thành lập vào năm sau đó. Năm 1928 ông quay lại Huế được giới thiệu và làm ở nhà xuất bản quan Hải Tùng Thư do Đào Duy Anh lập và ở báo tiếng dân của Huỳnh Thúc kháng. Đây cũng là thời điểm Võ Nguyên Giáp bắt đầu học nghề báo chuẩn bị cho giai đoạn hoạt động báo chí về sau nhờ làm việc trong một môi trường báo chí mà ông có cơ hội tiếp xúc với những học thuyết kinh tế xã hội dân tộc cách mạng đặc biệt trong đó có những tác phẩm như là bản án chế độ thực dân Pháp hay các bài trên báo Người Cùng Khổ do Nguyễn Ái Quốc gửi về từ Pháp tháng 10 năm 1930. Làn Sóng Xô Viết Nghệ Tĩnh bùng nổ vì tham gia phong trào mà Võ Nguyên Giáp bị bắt vào nhà lao thừa Phủ ở Huế cùng bị bắt có người yêu của ông là Nguyễn Thị Quang Thái em trai võ thuần Nho cùng các nhà giáo như là Đặng Thai Mai và Lê Viết Lượng.

Cuối năm 1931 nhờ sự can thiệp của quốc tế mà Võ Nguyên Giáp được trả tự do nhưng bị công sứ Pháp tại Huế ngăn cấm không cho ở lại nơi này vì vậy ông ra Hà Nội và theo học tại trường luật sau đó nhận bằng cử nhân luật năm 1937. Nhưng vì bận rộn hoạt động cách mạng nên vào năm 1938 ông bỏ dở chương trình học năm thứ tư về kinh tế chính trị không lấy bằng luật sư cũng trong giai đoạn từ năm 1936 đến năm 1939 Võ Nguyên Giáp tham gia phong trào mặt trận dân chủ Đông Dương. Bấy giờ ông cũng là chủ tịch ban báo chí Bắc Kỳ. Ông tham gia và thành lập các báo tiếng Pháp rồi biên tập các báo tiếng Việt như là tin tức hay là dân chúng. Tháng 5 năm 1939 ông cũng nhận dạy môn lịch sử ở trường tư thục Thăng Long. Học sinh của ông mô tả rằng ông có thể vẽ lên bảng đen sơ đồ từng trận đánh của Napoleon. Ông sôi nổi kể về Công xã Paris và cái chết của những nhà cách mạng. Họ nhận xét rằng Võ Nguyên Giáp không chỉ là nhà sử học đơn thuần, ông còn là một trạng sư say mê luôn bênh vực tính chính nghĩa của lịch sử có người còn kể rằng Võ Nguyên Giáp thường bảo với đồng nghiệp là mình sẽ là một Napoleon. Cũng vào năm 1939 ông kết hôn với người yêu Nguyễn Thị Quang Thái. Đến đầu năm 1940 họ có với nhau con gái đầu lòng là Võ Hồng Anh. Ngày 22 tháng 12 năm 1944, theo hướng dẫn của Hồ Chí Minh, ông thành lập đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân tại chiến khu Trần Hưng Đạo với 34 người, được trang bị 2 súng thập (một loại súng ngắn), 17 súng trường, 14 súng kíp và 1 súng máy. Đây là tổ chức tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Võ Nguyên Giáp – Đại tướng đầu tiên của nước Việt Nam

Ngày 25 tháng 12 năm 1944, Võ Nguyên Giáp đã chỉ huy đội quân này lập chiến công đầu tiên là tập kích diệt gọn hai đồn Phai Khắt và Nà Ngần.

Ngày 14 tháng 8 năm 1945, Võ Nguyên Giáp trở thành uỷ viên Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, sau đó là ủy viên Thường vụ Trung ương, tham gia Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc.

Sau Cách mạng Tháng Tám, Võ Nguyên Giáp được cử làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ và Phó Bộ trưởng (nay gọi là Thứ trưởng) Bộ Quốc phòng trong Chính phủ lâm thời (từ ngày 28 tháng 8 đến hết năm 1945) và là Tổng chỉ huy Quân đội Quốc gia và Dân quân tự vệ.

Trong Chính phủ Liên hiệp, ông là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (cho đến tháng 7 năm 1947 và từ tháng 7 năm 1948 trở đi).

Cũng trong năm 1946, ông kết hôn với bà Đặng Bích Hà (con gái giáo sư Đặng Thai Mai).

Kháng chiến chống Pháp

Ngày 19 tháng 12 năm 1946, Chiến tranh Đông Dương chính thức bùng nổ. Dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản, ông bắt đầu chỉ đạo cuộc đấu tranh vũ trang kéo dài 9 năm chống lại sự trở lại của người Pháp (1945-1954) trên cương vị Tổng chỉ huy và Tổng Chính ủy, từ năm 1949 đổi tên gọi là Tổng tư lệnh quân đội kiêm Bí thư Tổng Quân uỷ.

Đại tướng đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam

Không được đào tạo tại bất kỳ trường quân sự nào trước đó, không phải trải qua các cấp bậc quân hàm trong quân đội, Võ Nguyên Giáp thụ phong quân hàm Đại tướng vào ngày 28 tháng 5 năm 1948 theo sắc lệnh 110/SL ký ngày 20 tháng 1 năm 1948, Ông trở thành Đại tướng đầu tiên của Quân Đội Quốc gia Việt Nam khi 37 tuổi. Sau này, trả lời phóng viên nước ngoài về tiêu chí phong tướng, Hồ Chí Minh đã nói: “người nào đánh thắng đại tá thì phong đại tá, đánh thắng thiếu tướng thì phong thiếu tướng, đánh thắng trung tướng thì phong trung tướng, đánh thắng đại tướng thì phong đại tướng”. Cùng đợt thụ phong có Nguyễn Bình được phong Trung tướng; Nguyễn Sơn, Lê Thiết Hùng, Chu Văn Tấn, Hoàng Sâm, Hoàng Văn Thái, Lê Hiến Mai, Văn Tiến Dũng, Trần Đại Nghĩa, Trần Tử Bình được phong Thiếu tướng. Tháng 8 năm 1948, ông là ủy viên Hội đồng Quốc phòng Tối cao vừa mới được thành lập.

Từ tháng 8 năm 1945 Võ Nguyên Giáp là một trong 5 ủy viên Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương và trở thành ủy viên Bộ Chính trị (thay thế Ban Thường vụ Trung ương) Đảng Lao động Việt Nam từ năm 1951.

Như các danh tướng Việt Nam trong lịch sử, Võ Nguyên Giáp chú trọng nghệ thuật lấy ít địch nhiều, lấy yếu chế mạnh, lấy thô sơ thắng hiện đại. Tư tưởng quân sự nổi tiếng của ông có tên gọi là Chiến tranh Nhân dân kế thừa quan điểm quân sự Hồ Chí Minh, tinh hoa nghệ thuật đánh giặc của tổ tiên, tri thức quân sự thế giới, lý luận quân sự Mác-Lênin và được đúc rút từ kinh nghiệm cá nhân được liên tục cập nhật trong nhiều cuộc chiến tranh mà nổi bật là chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ.

Trong 9 năm trường kỳ đánh Pháp, Võ Nguyên Giáp đã có những sáng kiến quan trọng để phát huy sức mạnh quân sự và đã trở thành những kinh nghiệm quý báu như: “Đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung”. Với chuyên gia quân sự Trung Quốc sang giúp huấn luyện quân đội, ông chỉ đạo chiến sĩ học tập, tiếp thu, nghiên cứu kỹ phương pháp của nước bạn, đồng thời nhắc nhở cán bộ, sĩ quan phải ghi nhớ việc tiết kiệm sinh mạng bộ đội do Việt Nam là nước nhỏ không thể nuôi nhiều quân.

Năm 1954, Võ Nguyên Giáp được Hồ Chí Minh và Đảng Lao động tin tưởng trao cho toàn quyền chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ. Trước khi ra trận, Hồ Chí Minh đã dặn dò: “Cho chú toàn quyền chỉ huy. Trận này chỉ được thắng không được thua vì thua là hết vốn”. Ông tự tin lên kế hoạch và chỉ huy 4 trong 6 sư đoàn bộ binh khi đó của Quân đội Nhân dân Việt Nam là 308, 304, 312, 316 và Đại đoàn sơn pháo 351 tấn công Điện Biên Phủ, đánh bại đội quân nhà nghề được trang bị hiện đại của Liên hiệp Pháp. Chiến thắng này đã đặt dấu chấm hết cho quyền lực của người Pháp tại Đông Dương sau 83 năm và đã đưa Võ Nguyên Giáp đi vào lịch sử thế giới như là một danh nhân quân sự Việt Nam, một người hùng của Thế giới thứ ba, nơi có những người dân bị nô dịch đã xem Võ Nguyên Giáp là thần tượng để hạ quyết tâm lật đổ chế độ thực dân xây dựng nền độc lập của riêng mình.

Các chiến dịch mà ông đã từng tham gia:

Các chiến dịch ông đã tham gia với tư cách là Tư lệnh chiến dịch – Bí thư Đảng ủy trong kháng chiến chống Pháp cùng với Thiếu tướng Hoàng Văn Thái làm tham mưu trưởng chiến dịch:

Chiến dịch Việt Bắc (thu đông 1947)
Chiến dịch Biên giới (tháng 9 – 10, năm 1950)
Chiến dịch Trung Du (tháng 12 năm 1950)
Chiến dịch Đông Bắc (năm 1951)
Chiến dịch Đồng Bằng (tháng 5 năm 1951)
Chiến dịch Hòa Bình (tháng 12 năm 1951)
Chiến dịch Tây Bắc (tháng 9 năm 1952)
Chiến dịch Thượng Lào (tháng 4 năm 1953)
Chiến dịch Điện Biên Phủ (tháng 3 – 5 năm 1954)

Thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ mang đậm việc tạo thế, tổ chức hậu cần, thay đổi chiến thuật. Sau chiến dịch này, Hiệp định Genève về Đông Dương được ký kết, đặt dấu chấm hết cho sự có mặt của người Pháp ở Việt Nam sau hơn 80 năm.

TOUR THĂM QUAN NHÀ ĐẠI TƯỚNG – CHÙA HOẰNG PHÚC – SUỐI BANG – PHONG NHA KẺ BÀNG 2 NGÀY 1 ĐÊM SIÊU HẤP DẪN SIÊU KHUYẾN MÃI

Bài viết liên quan