Tìm hiểu về 81 ngày đêm tại Thành Cổ Quảng Trị

Trong những năm tháng khói lửa liên miên của cuộc kháng chiến chống Mỹ, mảnh đất Bình Trị Thiên là một trong những chiến trường xảy ra nhiều trận đánh khốc liệt bậc nhất vì nơi đây được xem là chiến địa tuyến đầu của cả hai bên. Ở đây, trong những năm tháng cuối của cuộc kháng chiến trống Mỹ, vùng đất này đã chứng kiến hàng nghìn lượt tân binh là các sinh viên mới lứa 18 đôi mươi từ các trường đại học miền Bắc nhập ngũ để chiến đấu giải phóng đất nước. Cả một thế hệ đã xếp bút nghiên và tạm biệt giảng đường, cầm súng lên chiến đấu vì ước mơ nước nhà độc lập thống nhất. Những năm tháng ấy đã chứng kiến vô số những sự hy sinh mất mát của những thanh niên tài năng. Và trong số những cuộc chiến khốc liệt giai đoạn đó, nổi tiếng và cũng mất mát nhiều bậc nhất chính là chiến dịch 81 ngày đêm bảo vệ Thành Cổ Quảng Trị mùa hè năm 1972 đỏ lửa. Cuộc chiến đấu giữa ta và địch tại Quảng Trị trong 81 ngày đêm, từ 28/6 đến 16/9/1972, diễn ra vô cùng ác liệt, suốt cả ngày lẫn đêm

Bối cảnh lịch sử năm 1972, quân giải phóng miền Nam Việt Nam đã tổ chức tấn công đồng loạt vào các mặt trận chính là Quảng Trị, Bắc Tây Nguyên và vùng Đông Nam Bộ. Trong số đó, chiến trường trọng yếu chính là hướng Quảng Trị. Thời điểm bấy giờ cũng là lúc cuộc đàm phán tại Paris giữa các bên về việc kết thúc cuộc chiến đang diễn ra căng thẳng. Tuy vậy, lợi thế đàm phán đang có phần nghiêng về chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sau khi chúng ta giành được thắng lợi chiến lược quan trọng tại chiến dịch Lam Sơn  năm 1971. Cộng với việc quân giải phóng cũng giành được nhiều thắng lợi khác ở trên khắp mặt trận nên việc kỳ vọng về việc ký kết hiệp định đang ngày càng rõ ràng hơn. Còn ở phía Việt Nam Cộng hòa và Mỹ, áp lực về việc phải giành được một chiến thắng có tính biểu tượng để lấy lại thế thượng phong ở trên bàn đảm phán ngày càng đè nặng lên họ. Vào cuối tháng 3 năm 1972, sau khi mở chiến dịch Trị Thiên thì sau hai đợt tấn công vào đến tháng năm thì lực lượng quân giải phóng hầu như đã giành được quyền kiểm soát toàn bộ tỉnh Quảng Trị. Đây cũng là thời điểm mà quân giải phóng bổ sung lực lượng để chuẩn bị cho đợt tấn công thứ ba và Thừa Thiên. Quảng Trị là một vị trí chiến lược quan trọng với Việt Nam Cộng hòa và Mỹ. Nơi này từng được Ngô Đình Diệm nhận định là bàn đạp để tấn công lên phía Bắc, vừa là lá chắn bảo vệ khu vực gần vĩ tuyến 17. Mà trong địa phận tỉnh Quảng Trị, một trong những vị trí quan trọng nhất chính là khu vực thành cổ nằm ở gần quốc lộ 1. Thành cổ Quảng Trị vốn được xây dựng từ đầu thời Nguyễn. Do Quảng Trị là đất được chiều đình coi trọng vì là trấn giữ mặt bắc của kinh đô Phú Xuân.

 

Năm 1806, Quảng Trị trở thành dinh trực lệ kinh đô. Thành Quảng Trị ban đầu chỉ được đắp đơn giản bằng đất nhưng đến năm 1837 dưới thời Minh Mạng, thành được xây lại bằng gạch đá. Thành có kiến trúc kiểu vo bàn với bốn góc thành nhô hẳn ra bên ngoài các dãy tường thành dùng làm pháo đài cánh giữ. Chu vi vòng thành là khoảng 2080 m, tường cao 4,25 m, chân tường dày đến 12 m. Bên ngoài thành là hệ thống hào bao quanh sâu tới 3 m, rộng đến gần 35 m. Thời Nguyễn thành là trung tâm kinh tế, chính trị và quân sự ở trong khu vực. Từ lúc mới chỉ là Dinh Quảng Trị, rồi thành trấn Quảng Trị và cuối cùng là tỉnh Quảng Trị. Trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, khu vực này biến thành tiền đồn phòng thủ của vùng một chiến thuật của Việt Nam Cộng hòa. Vì vậy, chiếm được thành cổ có giá trị về mặt chiến lược lẫn giá trị về mặt biểu tượng. Tin tức về việc Quảng Trị rơi vào tay chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam cũng đã tác động lớn tới chính quyền Sài Gòn của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Vào ngày 25 tháng 05 năm 1972, Tổng thống Thiệu đã đưa ra cam kết bằng mọi giá chiếm lấy Quảng Trị, đồng thời lên tiếng trách phía Mỹ đã bỏ rơi đồng minh. Tình hình của Mỹ cũng không khá hơn là mấy khi ngày càng có nhiều cử tri trong quốc hội lên tiếng yêu cầu rút quân khỏi Việt Nam. Chưa kể đến các cuộc biểu tình và phong trào kháng chiến ngày càng lan rộng. Tuy vậy, rõ ràng là việc giành lợi thế trên chiến trường để hy vọng chiếm lại thế thượng phong trên bàn đàm phán vẫn là mục tiêu quan trọng của Mỹ và Việt Nam Cộng hòa. Thêm việc thất bại sau chiến dịch Lam Sơn 719 và bất lợi giai đoạn nửa đầu năm 1972 nên Mỹ và Việt Nam Cộng hòa đã liên tục tăng cường lực lượng ở khu vực Chị Thiên. Và đến tháng 6 năm 1972, Mỹ và Việt Nam Cộng hòa đã dồn lực lượng lớn, có cả không quân và hải quân yểm trợ để bắt đầu tổ chức phản công. Cuộc phản công của Mỹ và Việt Nam Cộng hòa bắt đầu ngày 28 tháng 6 có tên là chiến dịch Lam Sơn 72. Đối với chiến dịch này, Việt Nam Cộng hòa đã huy động 35.000 quân và nhiều loại xe tăng, xe thiết giáp. Mỹ chủ yếu hỗ trợ bằng các cố vấn quân sự, sử dụng không quân cùng hải quân, thậm chí nhiều thời điểm còn huy động đến cả B52 để tổ chức ném bom chiến lược. Với lực lượng lớn như vậy, Trung tướng Ngô Quang Trưởng của Việt Nam Cộng hòa đã mạnh miệng tuyên bố rằng đồng minh sẽ sử dụng tối đa hỏa lực không quân và pháo binh để nghiền nát thành cố Quảng Trị. Về phía lực lượng quân giải phóng Việt Nam thì chúng ta có trong tay một vài xe tăng và một số đơn vị pháo phòng không. Lực lượng tác chiến chủ yếu là bộ binh. Về cả quân số lẫn trang thiết bị vũ khí đều thua kém rất nhiều so với địch. Nhưng kể cả như vậy, các lực lượng của chúng ta vẫn kiên cường bám trụ dù luôn phải hứng chịu hỏa lực khủng khiếp dẫn đến chiến sự giằng co ở Thành Cổ nói riêng và trong khu vực nói chung kéo dài đến tận 81 ngày đêm. Chính điều này đã khiến kế hoạch chiếm lại Quảng Trị của Mỹ và Việt Nam Cộng hòa bị kéo dài. Hy vọng về một chiến thắng áp đảo của Mỹ và Việt Nam Cộng hòa đã phá sản khiến triển vọng giành lại thế thượng phong trên bàn đảm phán tiếp tục không thể thực hiện được diễn biến cuộc chiến.

Hình ảnh thành cổ bình yên hiện tại

Trước khi trận đánh bắt đầu thì từ ngày 26 tháng 6 không quân Mỹ đã bắt đầu ném bom rải thảm Quảng Trị để chuẩn bị cho các hoạt động bộ binh. Mục tiêu của Mỹ và Việt Nam Cộng hòa là phải giành được chiến thắng trước ngày 13 thời điểm hội nghị Paris nhóm họp trở lại. Sau đó đến ngày 28 tháng 6, tướng Việt Nam Cộng hòa là Ngô Quang Trưởng bắt đầu ra lệnh tấn công mở màn chiến dịch Lam Sơn 72 theo hai hướng. Chiều ngày hôm đó, khi vượt sông Mỹ tránh, quân lực Việt Nam Cộng hòa đã cô lập được một số đơn vị của quân giải phóng ở khu vực phía Nam sông. Ở phía đông thì ngày 29 tháng 6 các đơn vị Việt Nam Cộng hòa đã phối hợp để đồng loạt đánh vào các khu vực Diên Khanh, Xuân Viện, Kim Giao. Rồi từ ngày mùng1 đến ngày mùng 6 tháng 7, sau khi nhổ từng chốt chặn của quân Giải Phóng và chịu thương vong lên đến hơn 300 người, quân lực Việt Nam Cộng hòa đã tiến sát đến ngoại vi thị xã Quảng Trị nhưng vẫn chưa lọt vào được. Ngay hôm sau, quân Giải Phóng đã điều động một số đơn vị và huy động cả xe tăng hỗ trợ để tiến hành phản kích. Quân đội Việt Nam Cộng hòa thấy xe tăng quân giải phóng bất ngờ xuất hiện nên đội hình rối loạn, chịu thương vong lớn và mất hai xe tăng bị đánh bật ra. Ở thời điểm này, thời hạn chiếm lại thành cổ, ban đầu dự tính của Mỹ và Việt Nam Cộng hòa đã sắp đến nhưng đà tiến vẫn bị chặn đứng. Mỹ bèn quyết định tăng cường hỏa lực đánh phá thị xã Quảng Trị. Số đạn pháo được dùng để bắn vào các khu vực do quân giải phóng kiểm soát. Ban đầu là vào khoảng 8000 viên mỗi ngày, giờ được tăng lên gần gấp đôi là 15.000 viên mỗi ngày. Thậm chí vào những giờ cao điểm, quân Mỹ bắn đến gần 30.000 viên. Đó là còn chưa kể đến việc người Mỹ luôn duy trì hàng ngày sử dụng từ 40 đến 60 lượt máy bay phản lực, kết hợp dùng bom để đánh phá. Vì muốn ngăn chặn các lực lượng tiếp viện và tiếp tế cho quân giải phóng phía bên trong thị xã và thành cổ, quân Mỹ nhiều thời điểm sử dụng đến cả B52 để đánh phá và ném bom rải thảm khu vực sông Thạch Hãn và những vùng hậu phương. Thiệt hại và thương vong của quân ta do các đợt ném bom này là rất lớn. Nhưng kể cả như thế thì bước tiến của quân lực Việt Nam Cộng hòa vẫn rất chậm. Sáng ngày 14 tháng 7, một đội biệt kích của Việt Nam Cộng hòa đã đột nhập bằng cách luồn lách qua một nghĩa địa Thiên Chúa rồi men theo các đường cống thoát nước để leo lên thành cổ. Ý định của nhóm này là tìm cách cắm cờ lên thành cổ và chụp ảnh để tuyên truyền gửi sang Paris. Thế nhưng chưa kịp thực hiện thì đã bị một số đơn vị quân giải phóng phát hiện và tiêu diệt. Một số thoát được nhưng phải bỏ lại lá cờ.

Hình ảnh đàm phán Paris – cuộc đàm phán dài nhất lịch sử

Như vậy, ý định của Việt Nam Cộng hòa về việc chiếm lại thị xã và thành cổ trước ngày 13 tháng 7 để có lợi thế tại hội nghị Paris đã phá sản. Sang ngày 14, quân lực Việt Nam Cộng hòa quyết định tổ chức tấn công đợt hai nhằm chiếm được thị xã trước ngày 18 hoặc cùng lắm là ngày 27. Đó là hai ngày các bên tiếp tục gặp nhau ở Paris để hội đàm. Dần dần, quân lực Việt Nam Cộng hòa đã hình thành được thế trận bao vây ba mặt quanh thị xã Quảng Trị nhưng vẫn chưa thể tiến vào được. Rồi để ngăn chặn đường tiếp vận của quân giải phóng, Mỹ tiếp tục tăng cường ném bom, nã pháo các loại và quốc lộ 1 và khu vực quanh thành cổ cùng thị xã Quảng Trị. Ngày 22 tháng 7, ở tuyến phòng thủ đầu tiên của quân giải phóng tại Long Quang, Việt Nam Cộng hòa đã sử dụng xe tăng và pháo binh tấn công chính diện ồ ạt và kết hợp cả máy bay ném bom để xuyên thủng phòng tuyến. Ngoài ra, Việt Nam Cộng hòa còn tổ chức các mũi tấn công thọc vào sườn và tập kích bí mật trong đêm nhằm xết vòng vây, tìm cách kéo lực lượng của quân giải phóng ra khỏi các vị trí phòng thủ để không quân và pháo binh Mỹ tiêu diệt. Tuy nhiên, ý định này tiếp tục không thành công và phòng tuyến vẫn chưa bị chọc thủng. Mà lúc đó, nội bộ Mỹ và Việt Nam Cộng hòa còn xảy ra mâu thuẫn. Vì ở Paris, phái đoàn Mỹ đã bí mật gặp phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mà không cho phía Việt Nam Cộng hòa biết. Sau đó từ ngày 25 đến ngày 27 khi thời hạn cuối cùng đến, tướng Việt Nam Cộng hòa là Lê Quang Lưỡng đã tung các lực lượng dự bị cuối cùng và chiến đấu, chiếm được một số vị trí. Nhưng mục tiêu quan trọng là tìm cách leo lên cắm cờ tại thành cổ thì vẫn không thực hiện được do quân giải phóng kiên cường phòng thủ và đẩy lùi nhiều đợt tấn công. Giao tranh xảy ra cực kỳ ác liệt nên cả hai bên đều phải chịu thương vong rất lớn. Đến ngày 28 khi hạn cuối do Mỹ và Việt Nam Cộng hòa đặt ra với mục tiêu chiếm thị xã và thành cổ đã hết, cường độ tấn công bắt đầu giảm. Phương án đánh nhanh chiếm nhanh của Việt Nam Cộng hòa bị loại bỏ. Tần suất oanh tạc bằng không quân của Mỹ ít đi, nhưng đồng thời tần suất pháo binh lại tăng lên đáng kể. Để tìm kiếm vị trí của quân giải phóng, không quân Việt Nam và Việt Nam Cộng hòa thường sử dụng các loại máy bay trinh sát. Rồi sau khi phát hiện vị trí nghi ngờ là trận địa của quân giải phóng, máy bay chính sát sẽ thả pháo khói xuống đánh dấu để sau đó ném bom và nã pháo. Tiếng pháo và bom nổ liên tục không ngớt gần như cả ngày, đặc biệt là ở khu vực  thành cổ. Bốn dãy tường thành cổ cao đến 4 m và dày đến cả chục mét, nhưng dưới sức công phá của bom đạn cũng vỡ nát dần. Đến mức có người nhận xét rằng đến cả một viên gạch cũng không còn nguyên vẹn. Hứng chịu sự công kích cường độ cao như thế, nhưng các đơn vị quân giải phóng vẫn kiên cường bám trụ, quyết không để địch chiếm được thành cổ và thị xã.

 

 

Hình ảnh Thành Cổ bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh

Thời điểm này là lúc mùa mưa bắt đầu kéo đến. Bộ đội quân Giải Phóng luôn phải chiến đấu trong điều kiện rất khó khăn khi bên ngoài là bóng đêm và hỏa lực của đối phương, bên trong là những căn hầm ngập nước khiến cho nguy cơ các vết thương bị nhiễm trùng tăng lên. Giao tranh diễn ra dữ dội có nơi trên trận địa có đến ba lớp người chết. cả bộ đội quân giải phóng lẫn lính Việt Nam Cộng hòa và cố vấn quân sự Mỹ. Trong khi đó, Mỹ vẫn tiếp tục duy trì cường độ ném bom và pháo kích. Một trong những nơi hứng chịu nhiều trận pháo kích nhất của Mỹ là bên vượt, nơi chuyển quân giữa hai bên sông Thạch Hãn. Mỹ tập trung pháo kích ở đây vì khúc sông ở biến vượt chính là nguồn tiếp vận gần như duy nhất của quân giải phóng trong thành cổ vì cầu đã bị đối phương phá hủy. Chính vì vậy mà một phần lớn thương vong của bộ đội ta đến từ việc mạo hiểm vượt sông để chi viện cho thành cổ. Thậm chí nhiều thương binh cũng đã bị thiệt mạng bởi bom và pháo kích khi đang được vận chuyển khỏi chiến trường. Dần dần nhờ ưu thế vượt trội về hỏa lực mà quân đội Việt Nam Cộng hòa dần tiến sát được ba mặt thành cổ. Nhưng quân giải phóng vẫn giữ vững được trận địa ở trong nhiều tuần liên tiếp. Trong khi đó, lực lượng tiếp viện vẫn được bổ sung đều đặn vào bên trong thành cổ. Trung bình mỗi đêm có khoảng từ 40 đến 50 người vào được. Nhưng đó đã là trừ đi những người bị thương hoặc hy sinh khi vượt sông. Hàng ngày đều có thuyền bí mật tiếp tế lương thực, đạn dược và thuốc men vào bên trong thành cổ. Dù vậy, do áp lực liên tục từ đối phương, giao thông hào chiến đấu bị bom đạn bắn phá liên tục nên hệ thống phòng thủ ngày càng lỏng dần. Tân binh được tăng cường cho các đơn vị phòng thủ chỉ đủ để bù đắp số lượng thương vong ở trong chiến đấu. Đến cuối tháng, hỏa lực của quân đội Việt Nam Cộng hòa lại được tăng cường thêm. Đến giữa tháng 9, chiến trận ngày càng trở nên ác liệt. Hai bên tranh nhau đến từng mét đất một. Lúc này, mùa mưa cũng bắt đầu vào cao điểm. Trời mưa to làm cho nước sông Thạch Hãn lên nhanh và chảy siết. ảnh hưởng nhiều đến việc tiếp viện cho quân đội quân giải phóng ở phía bên trong thành cổ. Mưa to liên tục cũng khiến cho nhiều công sự bị sụt lỡ. Quân đội Việt Nam Cộng hòa tổ chức tiến công đợt sáu dưới sự yểm trợ của không quân, hải quân và pháo binh. Quân đội Việt Nam Cộng hòa bắn phá liên tục 48 giờ vào các trận địa của quân giải phóng, trong đó tập trung hỏa lực đánh vào khu thành cổ, các bến vượt sông, đường cơ động lực lượng và vận chuyển.

 

Thậm chí Mỹ còn huy động thêm nhiều lượt B52 ném bom rải thảm vùng Tả Ngạn Sông Thạch Hãn, tập trung vào các trận địa pháo của ta ở khu vực này. Chỉ tính từ ngày mùng 9 tháng đến ngày 16, quân đội Mỹ đã sử dụng pháo bắn hơn 123.000 viên đạn pháo và thị xã Quảng Trị, trong đó hơn 52.000 viên nhắm vào khu vực thành cổ. Ngoài ra, Mỹ cũng sử dụng hơn 2200 máy bay ném bom, có ngày huy động tới 100 lượt. Nhưng kể cả như thế, các đơn vị quân giải phóng vẫn kiên quyết bám trụ tại thành cổ. Một phần lý do chính là để phối hợp với các cuộc đàm phán ở Paris. Nếu giữ được thành cổ và thị xã Quảng Trị đủ lâu, không để Mỹ và Việt Nam Cộng hòa có được chiến thắng ưu thế thì càng có lợi cho cuộc đàm phán của ta ở Paris. Hơn nữa, vị thế của các phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam trên bàn đàm phán cũng sẽ tăng lên. Trong những ngày sau đó, quân đội Việt Nam Cộng hòa tiếp tục tổ chức tấn công mạnh từ nhiều hướng và liên tục huy động lực lượng bổ sung. Nhưng các đơn vị quân giải phóng cũng đánh trả ác liệt khiến cho Việt Nam Cộng hòa vẫn chưa thể chiếm được thành cổ và chịu thương vong khá nặng. Nhiều ngày liên tục như thế vẫn chưa thành công, quân đội Việt Nam Cộng hòa quay ra củng cố công sự để bao vây, đồng thời điều cả xe tăng phun lửa liên tục, tấn công vào các chốt của quân giải phóng. Sau đó đến ngày 14 quân đội Việt Nam Cộng hòa tiếp tục đánh mạnh vào trong thành cổ. Bấy giờ có những chốt của ta chỉ cách địch mấy chục mét rồi. Có đơn vị hi sinh nhiều, lực lượng chỉ còn chừng 20 người chiến đấu được. Thế nhưng dù đối đầu với các đơn vị thủy quân lục chiến tinh nhuệ và liều mạng của Việt Nam Cộng hòa, quân giải phóng vẫn chống trả quyết liệt khiến cho đối phương phải rút lui. Đến chiều tối ngày hôm đó, thủy quân lục chiến của Việt Nam Cộng hòa tiếp tục tấn công dữ dội và thành cổ từ ba hướng. Thế nhưng cuối cùng vẫn không tài nào đánh bật được các đơn vị phòng thủ của quân giải phóng. Nhưng ở mặt trận thị xã Quảng Trị, quân đội Việt Nam Cộng hòa tuy vất vả nhưng cũng đã giành được một số lợi thế. Sau khi đánh bật được các đơn vị quân giải phóng ở khu vực bệnh viện quân y Quảng Trị và trường Bồ Đề, quân đội Việt Nam Cộng hòa lập tức triển khai lực lượng tiến về phía trung tâm thị xã Quảng Trị. Mà muốn tiến vào trung tâm thị xã, trước tiên quân Việt Nam Cộng hòa phải đối đầu với cả quân giải phóng đang đóng ở ti cảnh sát quốc gia. Quân Việt Nam Cộng hòa đã dùng mìn để phá hủy một  số lô cốt phòng thủ của quân giải phóng. Ngay sau đó là những đợt tấn công ồ ạt của lực lượng thủy quân lục chiến. Từng trung đội tràn lên ném lựu đạn và các cụm công sự chiến đấu của quân giải phóng. Trước lúc tấn công ồ ạt, quân giải phóng đã buộc phải rút lui để tránh hy sinh thêm. Sau khi chiếm được khu vực ti cảnh sát quốc gia, quân Việt Nam Cộng hòa tiếp tục tiến quân chiếm được thêm một số vị trí khác ở trong thị xã.

Đến rạng sáng ngày 15 tháng 9 , quân Việt Nam Cộng hòa tiếp tục tổng công kích từ ba hướng được chi viện tối đa hỏa lực của không quân, pháo binh, xe tăng các loại, cuối cùng có thể chiếm được một góc phía đông bắc của thành cổ. Các chốt của quân giải phóng tiếp tục chiến đấu ở trong ngày. Nhưng đến lúc này thì sức chiến đấu đã giảm, quân số bị thương vong nhiều. Nhiều đơn vị vẫn cố gắng vượt sông vào chi viện nhưng không đạt được hiệu quả do hỏa lực địch bắn phá mạnh. Lúc này việc nhất quyết bám trụ lại ở thành cổ đã không còn quá nhiều ý nghĩa nữa. Diễn biến các cuộc đàm phán ở Paris đã có lợi thế cho bên ta. Và vào ngày 11 tháng 9 thì cố vấn cấp cao của Mỹ là Kissinger đã chấp nhận phương án ngừng bắn và thỏa hiệp với yêu cầu về tổng tuyển cờ hai miền. Vì vậy để tránh chịu thêm nhiều thương vong, các lực lượng quân giải phóng bắt đầu rút dần khỏi thị xã Quảng Trị và khu vực thành cổ. Ngay trong đêm 15 tháng 9 , quân Giải Phóng đã thực hiện các đợt pháo kích và các lực lượng của quân Việt Nam Cộng hòa để yểm trợ cho lực lượng đang cố thủ ở đây chuẩn bị rút lui. Trong ngày 16 tháng việc rút lui đã hoàn thành. Cuộc chiến đấu vào vòng thủ kéo dài 81 ngày đêm của quân giải phóng mà thị xã Quảng Trị và khu vực thành cổ đã kết thúc. Ngay sau khi quân giải phóng rút lui, Mỹ tìm cách lật lại vấn đề rút quân khỏi Việt Nam. Nửa tỉnh Quảng Trị và các vùng kiểm soát mới giành được trước đó ở Tây Nguyên và Đông Nam Bộ đều là các địa bàn chiến lược. Hơn nữa, quân giải phóng vẫn sẵn sàng có thể chiến đấu ngay tiếp được tới tận tháng 10. Do đó, Mỹ cuối cùng vẫn phải chấp nhận giải pháp 10 điểm của chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam về việc rút toàn bộ quân về nước. Về phía Việt Nam Cộng hòa tuy chiếm lại được thành cổ nhưng cũng phải trả giá rất đắt. Kế hoạch chiếm được thị xã trước ngày 13 tháng 9 để đưa lên bàn đàm phán ở Paris đã không thành. Đó là chưa kể đến thương vong trong quãng thời gian diễn ra trận đánh lên tới 7756 người chết và hàng nghìn lính bị thương. Thiệt hại lớn của các đơn vị tinh nhuệ tham gia trận chiến đã khiến cho quân lực Việt Nam Cộng hòa cũng không còn đủ sức tấn công tiếp lên phía Bắc. Rồi thì các chiến dịch Lam Sơn 72A và cuộc hành quân sóng thần để tái chiếm bờ Bắc Thạch Hãn cũng nhanh chóng bị quân giải phóng đánh bại. Hai bên quay về giữ thế giằng co cho đến khi hiệp định Paris được ký kết thúc vào ngày 31 tháng 1 năm 1973. Tất nhiên để đạt được thành quả này, quân Giải Phóng cũng đã chịu nhiều mất mát. Khoảng 4000 người hy sinh và hàng nghìn người khác bị thương ở nhiều mức độ trong suốt 81 ngày đêm. Điều đáng nói là trong số ấy có rất nhiều người mới chỉ ở độ tuổi đôi mươi mới được huy động từ ngoài miền Bắc vào. Có những người hy sinh lúc vượt sông, có những người chưa kịp đến chiến đấu đã ngã xuống. Trong toàn trận chiến, Mỹ đã ném xuống Quảng Trị khoảng 120.000 tấn bom. Sức công phá còn gấp bảy lần quả bom nguyên tử ném xuống Hiroshima trong chiến tranh thế giới thứ hai. Toàn bộ khu vực thành cổ và phần lớn thị xã Quảng Trị bị bom đạn cẩy nát, đất đai bị sới tung lên. Nhưng kể cả như thế, các đơn vị quân giải phóng vẫn không thể trùn bước, kiên quyết bám trụ để hỗ trợ cho mặt trận ngoại giao và chỉ rút lui khi hoàn thành nhiệm vụ. Tuy đã để mất thị xã Quảng Trị và Thành Cổ nhưng quân Giải Phóng vẫn kiểm soát được nhiều vị trí chiến lược ở Hữu Ngạn Sông Thạch Hãn và một số vị trí phía tây Quảng Trị. Đây là những mục tiêu mà quân đội Việt Nam Cộng hòa đã tiếp tục tìm cách giành lại bằng các chiến dịch ở trong giai đoạn sau. Thế nhưng mọi nỗ lực đều bị quân giải phóng bẻ gãy. Trận chiến khốc liệt ở thành cổ Quảng Trị có thể không phải là một chiến thắng áp đảo trên mặt trận quân sự, nhưng cũng không nghi ngờ gì, nó đã góp công và thắng lợi trên bàn đàm phán giúp cho kháng chiến chống Mỹ tiến thêm những bước quan trọng tới chiến thắng cuối cùng.

Bài viết liên quan